Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường (Bộ NN&MT), hiện nay tỷ trọng chế biến trong nông, lâm, thủy sản đang tăng, từng bước thay thế sản xuất thô. Việc ứng dụng công nghệ bảo quản và chế biến đã giúp giảm tổn thất sau thu hoạch từ 5 - 10% và kéo dài thời gian bảo quản sản phẩm.
Công nghệ chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn
Cách đây gần 10 năm, Viện Nghiên cứu Phát triển vùng (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã hợp tác với Công ty ABI Nhật Bản chuyển giao thành công công nghệ bảo quản thực phẩm đông lạnh hiện đại CAS (Cells Alive System - Hệ thống tế bào còn sống) tại Việt Nam. Công nghệ này cho phép kéo dài thời gian bảo quản nông sản, thủy sản (như tôm, cá, vải, thanh long) lên nhiều tháng mà vẫn giữ được độ tươi ngon.
Tại thời điểm nghiên cứu để hợp tác chuyển giao, những kết quả bước đầu cho thấy sự khả quan và tiềm năng lớn của công nghệ này trong việc bảo quản nông, lâm, thủy sản như bảo quản tôm sú được tới chín tháng, cá ngừ hai tháng, quả nguyên vỏ như vải, nhãn (bảo quản 11 tháng) và hoa quả bóc vỏ, thái lát như thanh long, dưa hấu (bảo quản hai tháng) mà vẫn bảo đảm chất lượng.
CAS có khả năng gạt đi mối lo “được mùa mất giá” cho người nông dân, giúp nhà sản xuất lưu trữ sản phẩm trong kho để sẵn sàng đưa ra thị trường khi được giá cũng như có thể góp phần đưa nông sản, hải sản Việt Nam đến các thị trường cao cấp như Nhật Bản, Mỹ, châu Âu.
Tuy nhiên sau gần 10 năm, công nghệ này hiện nay gần như không được nhắc tới. Lý giải nguyên nhân của sự “mất tích” này, một cán bộ Viện Nghiên cứu phát triển vùng chia sẻ, một mô hình ứng dụng công nghệ với giá thành cao như CAS (từ một đến ba triệu USD) không phù hợp với người nông dân, hợp tác xã mà chỉ có thể là những doanh nghiệp có quy mô vốn từ tầm trung trở lên, trong khi thời gian thu hồi vốn thì khá lâu và rủi ro.
“Chúng tôi đã nghiên cứu công nghệ CAS cho nhiều dòng sản phẩm nhưng chuyển giao gặp rất nhiều khó khăn. Một trong những lý do khiến công nghệ CAS không thể phổ biến ở Việt Nam chính là những e ngại về khả năng thu hồi vốn khi giá thành quá cao”, vị cán bộ này nhận định.
Câu chuyện của công nghệ CAS không hề mới ở Việt Nam. Theo các chuyên gia, một trong những rào cản khiến công nghệ chế biến, bảo quản, giảm thất thoát sau thu hoạch ở Việt Nam còn chưa đáp ứng được nhu cầu là do nguồn vốn đầu tư còn rất khiêm tốn.
Doanh nghiệp chưa mặn mà với những công nghệ mới, giá thành cao nếu như không có sự hỗ trợ của Nhà nước. Bên cạnh đó, những công nghệ tiên tiến đều đòi hỏi đầu vào của sản phẩm phải đạt những tiêu chuẩn nhất định. Trong khi đó sản xuất nông nghiệp của Việt Nam hầu hết là nhỏ lẻ và manh mún.
Việc nghiên cứu công nghệ bảo quản sau thu hoạch dù được quan tâm và đẩy mạnh nhiều năm qua. Nhưng thực tế cũng chưa có những công trình, sản phẩm đáp ứng được tốt nhu cầu của thực tiễn. Hầu hết đều vướng bởi khâu thương mại hóa do thiếu vốn đầu tư.
Trong khi đó việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ cũng đòi hỏi thời gian để giải cứu giải mã công nghệ, đồng thời tự thiết kế, chế tạo ra một số thành phần của dây chuyền nhằm ứng dụng trên thực tiễn có hiệu quả.
Theo số liệu của tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của LHQ (FAO): Mỗi năm, hơn 10% khối lượng thực phẩm bị mất mát trong chuỗi cung ứng trước khi đến tay người tiêu dùng. Thậm chí, khi thực phẩm đã vào đến các gia đình, nhà hàng và dịch vụ ăn uống, hơn 1 tỷ tấn thức ăn vẫn tiếp tục bị lãng phí trên toàn thế giới.
Cần những giải pháp đồng bộ
Nói về “lời giải” cho “bài toán” này, PGS, TS Tạ Thị Thu Thủy, Viện trưởng Công nghệ sinh học và thực phẩm, Trường đại học Mở Hà Nội cho rằng, hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp là giải pháp hiệu quả nhất để thúc đẩy nghiên cứu và chuyển giao công nghệ chế biến, bảo quản thực phẩm.
Cách làm này vừa giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, vừa bảo đảm nguồn kinh phí ổn định cho các đơn vị nghiên cứu, đồng thời khiến các đề tài gắn sát với nhu cầu thực tế, dễ dàng ứng dụng vào sản xuất.
“Nhu cầu chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp rất lớn, hàng năm, hàng quý và hàng tháng chúng tôi luôn có doanh nghiệp đến để trao đổi và hiện chúng tôi đã ký hợp tác với hơn 20 doanh nghiệp để phát triển dòng sản phẩm của họ, đồng hành với họ”, bà Thủy chia sẻ.
Các chuyên gia cho rằng, chỉ nỗ lực từ nhà khoa học và doanh nghiệp là chưa đủ. Để khuyến khích doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu nông sản và hải sản ứng dụng công nghệ nhiều hơn, cần có sự đầu tư và hỗ trợ chính sách từ Nhà nước để bảo đảm sự đồng bộ trong toàn bộ chuỗi giá trị.
Trước mắt, cần đơn giản hóa thủ tục pháp lý về xuất nhập khẩu, đồng thời cung cấp các gói tín dụng ưu đãi giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất, chế biến và xuất khẩu diễn ra thuận lợi.
Ngoài ra, bà Thủy cho rằng, Việt Nam không thể chỉ dừng lại ở công nghệ chế biến và bảo quản đơn giản, mà cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ chế biến sâu và các giải pháp bảo quản hiện đại hơn.
“Khi đất nước tiến tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa và khoa học, công nghệ phát triển, nhu cầu về chế biến và chất lượng sản phẩm nông nghiệp sẽ ngày càng cao, vì thế công nghệ cũng phải theo kịp và đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tiễn”, bà Thủy nhận định.
Còn theo Thứ trưởng NN&MT Phùng Đức Tiến, xét với điều kiện Việt Nam thì việc tiếp nhận những công nghệ tiên tiến trên thế giới phải dựa trên việc xác định rõ sản phẩm ứng dụng ở đâu, quy mô như thế nào, ai sẽ là người áp dụng và ra thị trường sẽ được đón nhận như thế nào. Những câu hỏi này phải được trả lời thấu đáo.
Ông Tiến khẳng định, để giá trị xuất khẩu nông sản đạt mốc 70 tỷ USD, công nghệ bảo quản và chế biến sau thu hoạch là yếu tố không thể thiếu. Vì vậy, Bộ NN&MT sẽ phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp tại các vùng, tăng cường liên kết giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp. Đồng thời, hợp tác quốc tế sẽ được mở rộng, nhất là trong các lĩnh vực chế biến sâu, logistics và cơ giới hóa thông minh, nhằm nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam.